Tóm tắt những điểm mới trong Luật Bảo hiểm xã hội 2014 - Những thay đổi có lợi cho người lao động

Tóm tắt những điểm mới trong Luật Bảo hiểm xã hội 2014 - Những thay đổi có lợi cho người lao động

 
 

Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) được Quốc hội thông qua ngày 28/6/2006 đã đánh dấu sự phát triển quan trọng của ngành BHXH Việt Nam, tạo tiền đề cho việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH tới mọi người lao động, góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên, qua hơn 6 năm thực hiện, có nhiều nội dung của Luật BHXH 2006 không còn phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội, vì vậy, ngày 20/11/2014 Quốc hội đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 58/2014/QH13 gọi tắt là Luật BHXH 2014), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016 thay thế Luật BHXH 2006. Có thể nói, Luật BHXH 2014 ra đời đã khắc phục được nhiều điểm bất cập trong Luật BHXH 2006, đặc biệt, sự thay đổi quy định trong các chế độ trợ cấp của BHXH bắt buộc được nhiều chuyên gia đánh giá là sự thay đổi có lợi cho người lao động.

Luật bảo hiểm xã hội mới nhất – Luật BHXH số 58/2014/QH13

            Thứ nhấtvề đối tượng tham gia BHXH

Mở rộng đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc: theo quy định của Luật BHXH 2006, người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên. Theo đó, người làm việc theo hợp đồng lao động thời hạn dưới 3 tháng và lao động tự do không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Để mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, Luật BHXH 2014 quy định thêm ba nhóm đối tượng như sau:

+ Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng, áp dụng từ ngày 1/1/2018;

+ Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018;

+ Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn.

            Như vậy, theo Luật BHXH 2014, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đã bao phủ gần như toàn bộ người lao động có quan hệ lao động.

             Thứ hai, về các chế độ BHXH

            - Chế độ ốm đau: thay đổi cách tính trợ cấp ốm đau một ngày bằng mức trợ cấp ốm đau một tháng chia cho 24 ngày (ngày làm việc), trước đây quy định trong Luật BHXH năm 2006 là chia cho 26 ngày. Việc tính bình quân 24 ngày làm việc trong một tháng của chế độ trợ cấp ốm đau vừa phù hợp với người lao động làm việc ở khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, đồng thời còn đảm bảo quyền lợi cho người lao động nói chung.

            - Chế độ thai sản: Nới lỏng điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con đối với người mẹ khi mang thai phải nghỉ dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền.Trước đây, theo Luật BHXH 2006, đối tượng này cần đóng BHXH đủ 6 tháng trở lên trong khoảng thời gian 12 tháng trước khi sinh thì nay chỉ cần có thời gian đóng BHXH đủ 3 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh.

            + Quy định thêm trường hợp lao động nam đóng BHXH được nghỉ hưởng trợ cấp thai sản khi vợ sinh con, điều này phù hợp với nhu cầu của lao động nam.

            + Bổ sung quy định về thời gian nghỉ hưởng trợ cấp thai sản đối với người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ, người nhận nuôi con nuôi sơ sinh.

            + Thay đổi cách tính trợ cấp thai sản theo ngày đối với những trường hợp thời gian nghỉ tính theo ngày như khám thai, sảy thai, nạo thai, đặt vòng, triệt sản. Mức trợ cấp một ngày bằng mức trợ cấp một tháng chia cho 24 ngày giống như ở chế độ ốm đau.

            + Thay đổi mức nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe sau thời gian nghỉ ốm đau, thai sản, chỉ có một mức hưởng là 30% tiền lương cơ sở một ngày, thay vì có hai mức 25% tiền lương tối thiểu và 40% tiền lương tối thiểu một ngày tương ứng với nghỉ dưỡng sức tại nhà và nghỉ tại các cơ sở tập trung.

Chế độ hưu trí:

            + Điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng: nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi, có đủ từ 20 năm đóng BHXH trở lên và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, từ 1/1/2016 được chia thành hai nhóm, nhóm thứ nhất nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi, sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu; nhóm thứ hai nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên thì nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi là được hưởng lương hưu.

+) Mở rộng điều kiện hưởng lương hưu đối với lao động nữ hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở cấp xã chỉ cần có đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 55 tuổi. Tuy nhiên, đối tượng này không được điều chỉnh lương hưu theo mức lương cơ sở nếu mức lương hưu thấp hơn mức lương cơ sở.

+ Về tỷ lệ % hưởng lương hưu: Sửa đổi cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu theo lộ trình tăng dần số năm đóng BHXH đối với lao động nam để được hưởng 45% mức bình quân tiền lương tháng như sau: nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi mỗi năm tăng thêm 01 năm cho đến khi 20 năm đóng BHXH tương ứng với 45% (năm 2018 là 16 năm; năm 2019 là 17 năm; năm 2020 là 18 năm; năm 2021 là 19 năm và từ năm 2022 trở đi là 20 năm); đối với nữ 15 năm đóng BHXH tương ứng với 45% và sau đó cả nam và nữ đều tính thêm 2% cho mỗi năm, mức tối đa bằng 75%; tăng tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi.

            + Về BHXH một lần: Sửa đổi quy định điều kiện hưởng BHXH một lần để hạn chế tối đa việc hưởng BHXH một lần nhằm đảm bảo an sinh xã hội lâu dài, cụ thể chỉ giải quyết BHXH một lần đối với người lao động khi đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để định cư hợp pháp; bổ sung quy định giải quyết BHXH một lần đối với người mắc bệnh hiểm nghèo. Riêng đối với lực lượng vũ trang thực hiện như quy định hiện hành, được giải quyết ngay khi phục viên, xuất ngũ, nếu không đủ điều kiện để hưởng lương hưu và người lao động có nhu cầu;

 Tăng mức trợ cấp BHXH một lần từ 1,5 tháng lên 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi.

 - Chế độ tử tuất: theo Luật BHXH 2006, khi người lao động chết, nếu thân nhân đủ điều kiện được hưởng chế độ tiền tuất hàng tháng thì được giải quyết hưởng hàng tháng mà không được giải quyết chế độ tiền tuất một lần, trong khi tiền tuất một lần có thể cao hơn nhiều so với tiền tuất hàng tháng. Theo quy định mới, thân nhân có thể chọn hưởng chế độ tiền tuất hàng tháng hoặc tiền tuất một lần, trừ trường hợp con dưới 6 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

 Tóm lại, Luật BHXH 2014 đã quy định cụ thể hơn và chỉnh sửa những nội dung không còn phù hợp của Luật BHXH 2006, đảm bảo tính khoa học, thực tiễn và cân đối thu chi nhằm đảm bảo cân đối quỹ trong dài hạn nhằm thực hiện chính sách an sinh xã hội của quốc gia.